Cá nhám mang xếp (Chlamydoselachus anguineus)
Được biết đến như hóa thạch sống, cá nhám mang xếp vẫn giữ nguyên một số đặc điểm của tổ tiên cổ đại. Với vẻ ngoài cổ xưa, cá nhám mang xếp không thay đổi nhiều trong hàng triệu năm qua. Giới sinh vật học nghiên cứu chúng để tìm hiểu thêm về quá trình cá mập tiến hóa những đặc điểm cụ thể. Dù phân bố khắp Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cá nhám mang xếp hiếm khi được phát hiện.
Điều kỳ lạ nhất ở loài cá mập này là cách chúng sinh sản. Theo nghiên cứu công bố năm 2020, con cái sinh con sống sau khi mang thai 3,5 năm, một trong những thời gian mang thai dài nhất ở động vật có xương sống. Dài ít nhất 1,8 m, cá nhám mang xếp chủ yếu săn mực và cá khác. Ảnh: NPR
Cá nhám mang xếp (Chlamydoselachus anguineus)
Được biết đến như hóa thạch sống, cá nhám mang xếp vẫn giữ nguyên một số đặc điểm của tổ tiên cổ đại. Với vẻ ngoài cổ xưa, cá nhám mang xếp không thay đổi nhiều trong hàng triệu năm qua. Giới sinh vật học nghiên cứu chúng để tìm hiểu thêm về quá trình cá mập tiến hóa những đặc điểm cụ thể. Dù phân bố khắp Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cá nhám mang xếp hiếm khi được phát hiện.
Điều kỳ lạ nhất ở loài cá mập này là cách chúng sinh sản. Theo nghiên cứu công bố năm 2020, con cái sinh con sống sau khi mang thai 3,5 năm, một trong những thời gian mang thai dài nhất ở động vật có xương sống. Dài ít nhất 1,8 m, cá nhám mang xếp chủ yếu săn mực và cá khác. Ảnh: NPR
Cá mù (Myxini)
Cá mù ăn xác chết phân hủy của sinh vật biển khác bằng cách đào sâu vào bên trong với cấu trúc giống răng. Ước tính có 76 loài cá mù, một số sống ở độ sâu 1.707 m dưới mặt nước. Theo Đại học Chapman, dù là cá, chúng còn được gọi là lươn nhầy do chất nhờn mà cơ thể chúng tiết ra để xua đuổi kẻ săn mồi. Các nhà nghiên cứu đang khám phá sử dụng hợp chất dạng gel này trong ứng dụng công nghiệp hoặc y tế, bao gồm chữa lành vết bỏng. Một số loài cá không hàm có thể dài tới 1,2 mét trong khi những loài khác chỉ dài vài centimet. Ảnh: How Stuff Works
Cá mù (Myxini)
Cá mù ăn xác chết phân hủy của sinh vật biển khác bằng cách đào sâu vào bên trong với cấu trúc giống răng. Ước tính có 76 loài cá mù, một số sống ở độ sâu 1.707 m dưới mặt nước. Theo Đại học Chapman, dù là cá, chúng còn được gọi là lươn nhầy do chất nhờn mà cơ thể chúng tiết ra để xua đuổi kẻ săn mồi. Các nhà nghiên cứu đang khám phá sử dụng hợp chất dạng gel này trong ứng dụng công nghiệp hoặc y tế, bao gồm chữa lành vết bỏng. Một số loài cá không hàm có thể dài tới 1,2 mét trong khi những loài khác chỉ dài vài centimet. Ảnh: How Stuff Works
Cá sói (Anarhichas lupus)
Hàm răng sắc nhọn như răng chó giải thích tại sao loài cá này được gọi là cá sói Đại Tây Dương. Thường ăn sò điệp, cua ẩn sĩ và nhím biển, cá sói có nhiều hàng răng nhọn, một số nhô ra khỏi miệng. Nhát cắn mạnh giúp chúng phá vỡ vỏ cứng. Cá sói phân bố dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ. Thích nước lạnh và khu vực nhiều đá, chúng sống ở độ sâu tới 500 m. Theo nghiên cứu công bố năm 2007 trên tạp chí Science Direct, để sống sót trong nhiệt độ lạnh giá, chúng tạo ra chất chống đông đặc biệt để không hình thành băng trong cơ thể. Cơ thể giống lươn của chúng có thể dài gần một mét. Ảnh: NOAA
Cá sói (Anarhichas lupus)
Hàm răng sắc nhọn như răng chó giải thích tại sao loài cá này được gọi là cá sói Đại Tây Dương. Thường ăn sò điệp, cua ẩn sĩ và nhím biển, cá sói có nhiều hàng răng nhọn, một số nhô ra khỏi miệng. Nhát cắn mạnh giúp chúng phá vỡ vỏ cứng. Cá sói phân bố dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ. Thích nước lạnh và khu vực nhiều đá, chúng sống ở độ sâu tới 500 m. Theo nghiên cứu công bố năm 2007 trên tạp chí Science Direct, để sống sót trong nhiệt độ lạnh giá, chúng tạo ra chất chống đông đặc biệt để không hình thành băng trong cơ thể. Cơ thể giống lươn của chúng có thể dài gần một mét. Ảnh: NOAA
Cá mập yêu tinh (Mitsukurina owstoni)
Cá mập yêu tinh có thể có hơn 100 chiếc răng trong miệng. Loài vật hiếm gặp này có chiếc mõm đặc trưng dài và phẳng. Theo Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida, bên trong miệng của chúng là sự kết hợp giữa răng nhọn có rãnh và răng phẳng với 53 chiếc ở hàm trên và 62 chiếc ở hàm dưới. Khi nhai cá xương, giáp xác và mực, cá mập yêu tinh sử dụng phương pháp ăn gọi là "kiếm ăn kiểu bắn ná". Với tốc độ nhanh như chớp gần 11,3 km/h, chúng nhô hàm ra và chộp lấy con mồi. Các nhà khoa học lần đầu tiên quan sát hành vi này trong một bài báo công bố năm 2016 trên tạp chí Scientific Reports. Ảnh: Critter Science
Cá mập yêu tinh (Mitsukurina owstoni)
Cá mập yêu tinh có thể có hơn 100 chiếc răng trong miệng. Loài vật hiếm gặp này có chiếc mõm đặc trưng dài và phẳng. Theo Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida, bên trong miệng của chúng là sự kết hợp giữa răng nhọn có rãnh và răng phẳng với 53 chiếc ở hàm trên và 62 chiếc ở hàm dưới. Khi nhai cá xương, giáp xác và mực, cá mập yêu tinh sử dụng phương pháp ăn gọi là "kiếm ăn kiểu bắn ná". Với tốc độ nhanh như chớp gần 11,3 km/h, chúng nhô hàm ra và chộp lấy con mồi. Các nhà khoa học lần đầu tiên quan sát hành vi này trong một bài báo công bố năm 2016 trên tạp chí Scientific Reports. Ảnh: Critter Science
Cua nhện Nhật Bản (Macrocheira kaempferi)
Theo Smithsonian Ocean, cua nhện Nhật Bản có thể nặng tới 1,8 kg. Có nguồn gốc từ Thái Bình Dương, cua nhện Nhật Bản phát triển rộng tới 38 cm với sải chân dài 4 m. Đây là một trong những loài lớn nhất trong nhóm chân đốt, nhóm động vật không xương sống gồm tôm hùm, nhện và côn trùng. Thay vì săn mồi, cua nhện thường tìm kiếm thức ăn, trôi dạt dọc theo đáy biển thay vì bơi. Tuổi thọ của chúng vẫn là một bí ẩn, nhưng một số ước tính cho thấy chúng có thể sống 50-100 năm. Ảnh: Wikimedia
Cua nhện Nhật Bản (Macrocheira kaempferi)
Theo Smithsonian Ocean, cua nhện Nhật Bản có thể nặng tới 1,8 kg. Có nguồn gốc từ Thái Bình Dương, cua nhện Nhật Bản phát triển rộng tới 38 cm với sải chân dài 4 m. Đây là một trong những loài lớn nhất trong nhóm chân đốt, nhóm động vật không xương sống gồm tôm hùm, nhện và côn trùng. Thay vì săn mồi, cua nhện thường tìm kiếm thức ăn, trôi dạt dọc theo đáy biển thay vì bơi. Tuổi thọ của chúng vẫn là một bí ẩn, nhưng một số ước tính cho thấy chúng có thể sống 50-100 năm. Ảnh: Wikimedia
Cá mập ma (Chimaeriformes)
Giống cá mập và cá đuối, cá mập ma còn được gọi là chimaera, là loài cá sụn. Chiếc mõm nhô giúp chúng phát hiện trường điện và chuyển động khi săn mồi trong cát. Gần vây lưng, một chiếc gai độc giúp bảo vệ chúng khỏi động vật săn mồi. Bằng chứng hóa thạch cho thấy chimaera đã tồn tại hàng triệu năm. Tổ tiên của chúng tách ra khỏi cá mập gần 400 triệu năm trước. Theo New York Times, các nhà khoa học phát hiện hơn chục loài chimaera mới trong những thập kỷ gần đây nhưng lo ngại loài cá này sẽ tuyệt chủng trước khi họ có cơ hội tìm hiểu thêm về chúng. Ảnh: Newsweek
Cá mập ma (Chimaeriformes)
Giống cá mập và cá đuối, cá mập ma còn được gọi là chimaera, là loài cá sụn. Chiếc mõm nhô giúp chúng phát hiện trường điện và chuyển động khi săn mồi trong cát. Gần vây lưng, một chiếc gai độc giúp bảo vệ chúng khỏi động vật săn mồi. Bằng chứng hóa thạch cho thấy chimaera đã tồn tại hàng triệu năm. Tổ tiên của chúng tách ra khỏi cá mập gần 400 triệu năm trước. Theo New York Times, các nhà khoa học phát hiện hơn chục loài chimaera mới trong những thập kỷ gần đây nhưng lo ngại loài cá này sẽ tuyệt chủng trước khi họ có cơ hội tìm hiểu thêm về chúng. Ảnh: Newsweek
Cá mắt thùng (Opisthoproctidae)
Cá mắt thùng có đầu trong suốt chứa đầy chất lỏng. Các nhà khoa học lần đầu tiên mô tả cá mắt thùng vào năm 1939, nhấn mạnh đôi mắt nhạy cảm với ánh sáng của chúng có tròng màu xanh lá cây rực rỡ. Nhiều thập kỷ sau, nhóm chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Thủy cung vịnh Monterey phát hiện đôi mắt lớn hình ống của cá mắt thùng thực sự có thể xoay, cho phép chúng nhìn lên để tìm con mồi tiềm năng hoặc nhìn về phía trước.
Sắc tố vàng trong mắt giúp chúng phân biệt giữa ánh sáng Mặt Trời và phát quang sinh học, qua đó dễ dàng phát hiện thức ăn hơn. Cá mắt thùng có thể lén lút tiếp cận siphonophore và chộp lấy một số con mồi của chúng. Lớp bảo vệ trong suốt bảo vệ mắt của chúng khỏi xúc tu của con mồi. Ảnh: MBARI
Cá mắt thùng (Opisthoproctidae)
Cá mắt thùng có đầu trong suốt chứa đầy chất lỏng. Các nhà khoa học lần đầu tiên mô tả cá mắt thùng vào năm 1939, nhấn mạnh đôi mắt nhạy cảm với ánh sáng của chúng có tròng màu xanh lá cây rực rỡ. Nhiều thập kỷ sau, nhóm chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Thủy cung vịnh Monterey phát hiện đôi mắt lớn hình ống của cá mắt thùng thực sự có thể xoay, cho phép chúng nhìn lên để tìm con mồi tiềm năng hoặc nhìn về phía trước.
Sắc tố vàng trong mắt giúp chúng phân biệt giữa ánh sáng Mặt Trời và phát quang sinh học, qua đó dễ dàng phát hiện thức ăn hơn. Cá mắt thùng có thể lén lút tiếp cận siphonophore và chộp lấy một số con mồi của chúng. Lớp bảo vệ trong suốt bảo vệ mắt của chúng khỏi xúc tu của con mồi. Ảnh: MBARI
Cá giọt nước (Psychrolutes marcidus)
Một cuộc thăm dò năm 2013 của Hiệp hội Bảo tồn Động vật Xấu xí ở Anh thực hiện trao danh hiệu "động vật xấu xí nhất thế giới" cho cá giọt nước. Chúng thuộc họ Psychrolutidae, nhóm cá có hình dáng giống nòng nọc sống ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương ở độ sâu 100-2.804 m. Khi cá giọt nước ở trên cạn, chất lỏng gelatin dưới da của chúng bị chảy xệ. Dưới đáy biển sâu, nước nâng đỡ và định hình chất nhờn, làm cho cá giọt nước trông giống cá hơn. Chất lỏng giống như thạch còn giúp chúng duy trì độ sâu mà không cần sự hỗ trợ của bong bóng cá. Ảnh: Sky News
Cá giọt nước (Psychrolutes marcidus)
Một cuộc thăm dò năm 2013 của Hiệp hội Bảo tồn Động vật Xấu xí ở Anh thực hiện trao danh hiệu "động vật xấu xí nhất thế giới" cho cá giọt nước. Chúng thuộc họ Psychrolutidae, nhóm cá có hình dáng giống nòng nọc sống ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương ở độ sâu 100-2.804 m. Khi cá giọt nước ở trên cạn, chất lỏng gelatin dưới da của chúng bị chảy xệ. Dưới đáy biển sâu, nước nâng đỡ và định hình chất nhờn, làm cho cá giọt nước trông giống cá hơn. Chất lỏng giống như thạch còn giúp chúng duy trì độ sâu mà không cần sự hỗ trợ của bong bóng cá. Ảnh: Sky News
An Khang (Tổng hợp)